MÔN TOÁN THCS
Câu 1: Ngoài các phương pháp dạy học đã được giới thiệu trong
Những vấn đề chung về phương pháp dạy học và giáo dục phát triển phẩm chất,
năng lực quý Thầy/Cô còn biết các phương pháp dạy học nào khác để phát triển
phẩm chất và năng lực trong môn Toán?
Trả lời:
Phương pháp tổ chức trò chơi
Phương pháp bàn tay nặn bột
Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực
dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên.
Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các
thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề
được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên
cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu
hỏi, giả thiết từ hiểu biết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm
chứng, so sánh, phân tích, thảo luận và đưa ra kết luận phù hợp.
Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá
của học sinh.
Vai trò của GV –HS : Cũng như các phương pháp dạy học
tích cực khác, BTNB luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức,
chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ
của giáo viên:
Thầy cô giáo sẽ nêu vấn đề để học sinh tự đi tìm tình
huống cần giải quyết thông qua hoạt động thực hành, thí nghiệm do chính các em
tự làm, hoạt động thảo luận nhóm để đưa ra những giả thiết.
Thầy cô sẽ giúp học sinh chứng minh những giả thiết
của các em và cùng các em tìm ra câu trả lời đúng.
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám
phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua
ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Giảng dạy khoa học dựa trên tìm tòi khám phá.
Tiến trình của 1 giờ dạy theo phương pháp "Bàn
tay nặn bột"
Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề và xác định vấn đề
cần giải quyết.
Bước 2: Tổ chức các hoạt động để giải quyết vấn đề.
Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng
Tiến trình của một thực nghiệm: Gồm có 5 bước:
B1: Đưa ra tình huống có vấn đề.
B2: HS làm việc cá nhân hc theo nhóm ( đưa ra câu hỏi,
dự đoán kết quả, giải thích)
B3: Tiến hành thực nghiệm.
B4: So sánh kết quả với dự đoán.
B5: Kết luận, mở rộng.
Vai trò của người giáo viên:
* GV là người hướng dẫn:
- Đề ra những tình huống, những thử thách.
- Định hướng các hoạt động.
- Thu hẹp những cái có thể.
- Chỉ ra thông tin.
* Giáo viên là người trung gian:
- Là nhà trung gian giữa "thế giới" khoa học
(Các kthức & T.Hành) và HS
- Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận
thức liên quan với những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích
đáng, với mô hình giải thích hợp lí.
- Đảm bảo sự đóan trước và giải quyết các xung đột
nhận thức.
- Hành động bên cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi
nhóm học sinh và cả lớp.
Vai trò của học sinh trong giờ học với PPBTNB:
- HS quan sát một hiện tượng của thế giới thực tại và
gần gũi với chúng về đề tài mà từ đó chúng sẽ hình thành các nghi vấn.
- HS tìm tòi, suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể
của thực nghiệm, hoặc chỉnh lí lại những ca thất bại nhờ tra cứu tư liệu.
- HS trao đổi và lập luận trong QT hoạt động, chúng
chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình, cọ sát những quan điểm của nhau và
hình thành những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng bằng ghi chép, biết phát
biểu.
Như vậy là học sinh đã biết nghe lời người khác, hiểu
người khác, tôn trọng người khác và biết bảo vệ ý kiến của mình.
Phương pháp dạy học theo góc
Câu 2: Hãy cho ví dụ minh hoạ về mối quan hệ giữa yêu cầu cần đạt
với nội dung dạy học, PP và KTDH của một chủ đề trong môn Toán ở THCS.
Có thể trình bày thông tin dưới dạng bảng gợi ý sau:
PHƯƠNG TRÌNH BẬC NHẤT MỘT ẨN. |
YÊU CẦU CẦN ĐẠT |
MỤC TIÊU (PC – NL) |
NỘI DUNG |
PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT |
PHƯƠNG TIỆN |
-
Nhận biết được khái niệm PT bậc nhất một ẩn. -
Giải được PT bậc nhất một ẩn. |
-
Phát biểu được định nghĩa PT bậc nhất một ẩn. (GTTH) -
Lấy được VD về PT bậc nhất một ẩn, xác định các hệ số a, b. (GQVĐ - TDLL) -
Xây dựng được công thức giải PT bậc nhất một ẩn. (GQVĐ- TDLL) -
Thực hiện giải được PT bậc nhất một ẩn. (GQVĐ - TDLL) -
Nhận rađược các vấn đề thực tiễn liên quan đến PT bậc nhất một ẩn. |
-
Định nghĩa PT bậc nhất một ẩn. -
Dạykhái niệm nghiệm của PT bậc nhất một ẩn. -
Xây dựng cách giải PT bậc nhất một ẩn. -
Giải các PT bậc nhất một ẩn. |
-
Dạy học bằng mô hình hóa. -
Dạy học giải quyết vấn đề. -
Dạy học tranh luận khoa học -
Kĩ thuật khăn trải bàn. |
Máy
chiếu, file
trình chiếu. Phiếu
học tập |
|
-
Giải quyết được một số vấn đề thực tiễn gắn với PT bậc nhất một ẩn. |
-
Giải quyết được các vấn đề thực tiễn liên quan đến PT bậc nhất một ẩn. (MHH) -
Nhận biết được mối liên hệ giữa PT bậc nhất một ẩn với kiến thức các môn học
khác và giải quyết được các vấn đề liên quan. (TDLL - GQVĐ) |
-
Vận dụng PT bậc nhất vào giải quyết các vấn đề thực tế liên quan đến PT bậc
nhất một ẩn. |
-
Dạy học khám phá, mô hình hóa. |
Câu 3: Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng của các PP, KTDH vừa tìm
hiểu ở trên trong thực tiễn nhà trường của thầy/cô.
Để giúp giáo viên đạt được hiệu quả cao trong quá trình tổ chức
hoạt động học cho học sinh, tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm như sau:
1. Chia nhóm học tập
Nhóm học tập rất cần thiết trong dạy học theo định
hướng phát triển năng lực người học. Khi học theo nhóm các em được chia sẻ ý
kiến cho nhau, được hỗ trợ giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ nhằm phát triển năng
lực và phẩm chất, hoàn thiện bản thân trong quá trình học tập.
Việc chia nhóm phải đảm bảo cho các em học sinh được
học tập thuận lợi, chỗ ngồi của nhóm phải dễ trao đổi thảo luận với nhau để
cùng nhau học tập xây dựng bài học dưới sự điều khiển của giáo viên. Các em
phải được thuận lợi trong việc ghi vở và đọc các tư liệu bài học cũng như thuận
lợi khi thực hành thí nghiệm. Nhóm học tập có thể 2 em, 3 em, tốt nhất là 4 em
để đảm bảo các em dễ hợp tác với nhau.
Khi chia nhóm, giáo viên cần tránh: Chọn số lượng nhóm
quá lớn làm cản trở sự trao đổi và điều khiển của nhóm trưởng cũng như các
thành viên trong nhóm, dẫn đến một số em bị bỏ rơi khi thảo luận hoặc không có
cơ hội trình bày ý kiến của mình khi thảo luận; lựa chọn học nhóm không phù hợp
với phương pháp, kỹ thuật mà giáo viên đưa ra, chẳng hạn như thuyết trình,
trình chiếu, vấn đáp, không có thảo luận trong nhóm học sinh.
Giáo viên nên: Chia nhóm một cách tối ưu (nếu được 4
em một nhóm là tốt nhất) sao cho các em có thể trao đổi thảo luận và quán xuyến
công việc của nhau trong quá trình học tập. Có thể mỗi bàn học 4 em là 1 nhóm,
hoặc ghép bàn tạo các nhóm 4 em…; Vị trí đặt bàn ghế các nhóm phải thuận lợi
cho việc đi lại của giáo viên và học sinh, nên để không gian trong lớp mà giáo
viên có thể đi lại được xung quanh lớp học; Điều chỉnh những đồ đạc không cần
thiết được cất đi nếu gây cản trở khi tổ chức hoạt động nhóm; Luân phiên chỉ
định nhóm trưởng và thành viên trong nhóm báo cáo kết quả hoạt động nhóm một
cách linh hoạt phù hợp trong các hoạt đông của từng bài học.
2. Hướng dẫn học sinh ghi vở
Vở ghi học sinh là tài liệu quan trọng, hỗ trợ cho học
sinh trong quá trình học tập. Việc ghi vở phải khoa học, rõ ràng, thiết thực
trong quá trình học tập trên lớp cũng như ở nhà. Vở ghi giúp học sinh tái hiện
lại những kiến thức, kỹ năng và kết quả học tập của mình trong quá trình học
tập, giúp cho giáo viên cũng như cha mẹ học sinh biết được trình độ nhận thức
cũng như kết quả học tập của các em trong quá trình học ở trường phổ thông. Căn
cứ vào vở ghi học sinh, giáo viên biết được việc học hành của các em đồng thời
có thể sử dụng để đánh giá quá trình học tập của học sinh, điều chỉnh cách học
của học sinh sao cho đạt được hiệu quả mong muốn.
Đối với cấp THCS, trong mỗi hoạt động học, giáo viên
cần chú ý hướng dẫn ngay từ đầu năm học đầu cấp, rèn luyện cho các em thói quen
ghi vở, các hoạt động ghi chép này hoàn toàn chủ động, sáng tạo của học sinh,
tránh trường hợp ghi chép một cách máy móc theo ý áp đặt của giáo viên như chép
bảng. màn hình... vào vở mà học sinh không hiểu gì.
Để làm được điều này, ngay từ đầu, trong mỗi hoạt động
học giáo viên cần lưu ý cho học sinh ghi chép vở theo những bước sau đây:
- Ghi chép nhiệm vụ của hoạt động mà thầy, cô giáo
chuyển giao vào vở. Nhóm trưởng cùng các bạn hỗ trợ, nhắc nhở bạn bên cạnh
trong việc ghi nhiệm vụ này vào vở cá nhân.
- Ghi chép ý kiến của cá nhân học sinh vào vở. Giáo
viên cần cho học sinh đủ thời gian để các em suy nghĩ độc lập về nhiệm vụ học
tập cũng như suy nghĩ cá nhân cách giải quyết vấn đề theo ý kiến chủ quan và
trình độ của học sinh. Mỗi thành viên đều phải có ý kiến ghi vở. Học sinh có
thể nhiều ý kiến hoặc ít ý kiến, nhưng bắt buộc mỗi thành viên phải có tối thiểu một ý kiến ghi vở (dù ý kiến đó là
đúng hay sai) thì sau đó nhóm trưởng mới được quyền cho các bạn thảo luận nhóm.
- Ghi chép ý kiến thảo luận của nhóm vào vở. Mỗi em sẽ
ghi vào vở các ý kiến đã thảo luận của nhóm về nhiệm vụ được giao. Nên yêu cầu
học sinh ghi ý kiến của 3 bạn trong nhóm vào vở, từ đó phân tích so sánh các ý
kiến để đưa ra ý kiến chung của nhóm trong việc giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Ghi chép ý kiến trình bày báo cáo kết quả của nhóm
vào vở. Thảo luận và chọn phương án báo cáo. Ví dụ khi báo cáo dùng giấy A0,
giấy A4 và đèn chiếu, các slide hỗ trợ hay chỉ báo cáo miệng...
Khi cần báo cáo hoạt động của nhóm, giáo viên nên chỉ
định một học sinh (một em nào đó, nhất là các em chưa tự tin) để báo cáo. Trong
quá trình hoạt động nhóm, giáo viên nên tránh: Nói to trước lớp, trình chiếu,
hoặc giảng giải vấn đề... làm mất tập trung hoạt động của nhóm; Nói chung chung
và đi lại quá nhiều trong lớp học không rõ mục đích...
Giáo viên cần: Chọn vị trí đứng, quan sát hoạt động
của các nhóm và từng em, phát hiện kịp thời khi học sinh giơ tay cần hỗ trợ
hoặc thông báo; Bỏ thói quen “gà bài” cho học sinh, khẳng định chân lý, chốt
kiến thức cho các nhóm khi các em đang hoạt động nhóm, chưa báo cáo nhóm...
3. Kỹ thuật ghi bảng giáo viên
Bảng là một thiết bị rất hữu hiệu, thiết thực của lớp
học trong quá trình dạy học. Dù sau này các kỹ thuật và phương pháp dạy học có
tân tiến đến đâu thì bảng vẫn là dụng cụ gần gũi, thiết thực hỗ trợ giáo viên
và học sinh trong quá trình học tập ở mọi nơi mọi chỗ.
Để sử dụng bảng hiệu quả, giáo viên nên tránh: Dùng
bảng như là bình phong để treo bảng phụ và các tài liệu khác mà đáng lẽ ra giáo
viên hoặc học sinh có thể kẻ, vẽ nhanh được trên bảng...; chép tất cả nội dung
bài học lên bảng...
Giáo viên cần: Ghi bảng khi thấy cần thiết như nội
dung hoạt động chung cả lớp, tên bài học, các nhiệm vụ chuyển giao cho học
sinh, các ý kiến của học sinh (nếu cần thiết) và hệ thống hóa kiến thức, những
gợi ý hoạt động như cách thức hoạt động, yêu cầu thiết bị và học liệu cũng như
sản phẩm của hoạt động…; Ghi những điểm cần khắc sâu như công thức, mệnh đề...
để các em lưu ý khi hệ thống hóa kiến thức; tránh ghi trùng lặp kiến thức đã có
ở bảng phụ, slide và các tài liệu khác một cách quá thái không cần thiết...
4. Tổ chức hoạt động khởi động, nêu vấn đề
Hoạt động khởi động (tạo tình huống xuất phát) rất cần
thiết trong dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh, phát triển năng lực
tư duy nêu để giải quyết vấn đề. Hoạt động nàỳ cần tạo ra những tình huống,
những vấn đề ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến thức hiện có,
những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo
cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải quyết.
Như vậy, hoạt động tạo tình huống xuất phát là một hoạt động học tập, nhiệm vụ chuyển giao của
giáo viên phải rõ ràng, học sinh phải được bày tỏ ý kiến riêng của mình cũng
như ý kiến của nhóm về vấn đề đó cũng như việc trình bày báo cáo kết quả.
Tuy nhiên, một số giáo viên còn lạm dụng hoạt động
này. Chẳng hạn như tổ chức trò chơi, hát múa mà không ăn nhập với bài học hoặc
chỉ là để “vào bài” với cái tên bài học mà ai cũng biết.
Để tổ chức hiệu quả hoạt động này, giao viên tránh:
Cho học sinh hoạt động trò chơi, múa hát không ăn nhập với bài học, nhất là lạm
dụng Hội đồng tự quản để điều khiển việc này; lựa chọn các tình huống không đắt
giá dẫn đến các em có thể trả lời được một cách dễ dàng với các câu hỏi đặt vấn
đề đơn giản (vấn đề với câu lệnh what?); Thời gian cho hoạt động này quá ít vì
chưa coi đó là một hoạt động học tập, chưa cho các em suy nghĩ, bầy tỏ ý kiến của
mình; cố gắng giảng giải, chốt kiến thức ở ngay hoạt động này...
Giáo viên cần: Nêu vấn đề tìm hiểu của bài học khi
khởi động gắn liền với hoạt động tiếp nối là hình thành kiến thức mà đã có
trong tài liệu, sách giáo khoa của bài học; coi hoạt động này là một hoạt động
học tập, có mục đích, thời gian hoạt động và sản phẩm hoạt động; bố trí thời
gian thích hợp cho các em học tập, bày tỏ quan điểm cũng như sản phẩm của hoạt
động.
5. Hệ thống hóa kiến thức bài học
Khâu quan trọng trong bài học là hệ thống hóa kiến
thức được hình thành trong bài học. Thông thường giáo viên tổ chức hoạt động
này trong mục “Hình thành kiến thức” hoặc “Luyện tập”. Trong bài học người giáo
viên bắt buộc phải hệ thống hóa kiến thức.
Bài học có thể là một chủ đề dạy học gồm các tiết học với các nội dung đòi hỏi
người giáo viên phải chọn thời điểm thích hợp để hệ thống hóa kiến thức đảm bảo
sao cho đạt được mục tiêu của bài học, đó là bài học phải đạt được mục tiêu của
chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông quy định.
Để tổ chức hệ thống hóa bài học, giáo viên nên: Thảo
luận chung toàn lớp về những kiến thức mới được hình thành ở hoạt động “hình
thành kiến thức” với những vấn đề mà các em phát hiện ra ban đầu ở hoạt động
“khởi động” nêu vấn đề. Trên cơ sở đó giáo viên có những nhận xét đánh giá kết
quả hoạt động của các nhóm, hoặc từng cá nhân học sinh, lựa chọn và ghi vào “sổ
tay lên lớp” của mình. Đây chính là thời điểm hay nhất để giúp giáo viên có sự
nhìn nhận, đánh giá, rút kinh nghiệm sự tổ chức hoạt động của mình.
Giáo viên phải là trọng tài, giám khảo để chốt lại
kiến thức, giúp các em nhận thức ra chân lý. Nếu các em còn gặp khó khăn cần sử
dụng các kỹ thuật hoặc phương pháp để trợ giúp các em, thậm chí cần giảng giải
đưa ra những minh chứng thực tiễn về vấn đề đó, hoặc tiếp tục cho các em nghiên
cứu tìm hiểu ở ngoài lớp học...
Khi hệ thống hóa kiến thức, GV cần biên soạn (có thể
làm phiếu học tập) các câu hỏi lý thuyết, các bài tập cơ bản (tốt nhất là câu
hỏi tự luận) đảm bảo sao cho đạt được chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình
hiện hành mà mục tiêu bài học đã đặt ra. Có thể tổ chức cho các em trải nghiệm
trước khi “chốt” lại các kiến thức của toàn bài học.
6. Kết thúc bài học và hướng dẫn giao nhiệm vụ về nhà
Trong giờ dạy, người giáo viên cần chủ động kết thúc
và giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh. Thông thường ít nhất 3 đến 5 phút trước
khi kết thúc tiết dạy (nếu không tiếp tục dạy ở tiết sau), giáo viên cần cho
các em dừng việc học tập ở trên lớp lại, có thể lúc đó công việc trên lớp vẫn
còn dang dở.
Vấn đề là ở chỗ cần xử lý tình huống sư phạm như thế
nào cho từng nhóm, từng em ở trong lớp. Giáo viên cần căn cứ kết quả và tiến độ
hoạt động của từng nhóm học sinh để giao việc về nhà cho học sinh. Việc học tập
ở nhà (ngoài lớp) có thể hướng dẫn:
a) Đối với các nhóm hoạt động còn dang dở: Tiếp tục về
nhà nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề chưa xong trên lớp, gợi ý các em các thực hiện
ở nhà... và vận dụng vào thực tiễn. Yêu cầu các em báo cáo kết quả thực hiện ở
nhà thông qua các sản phẩm học tập.
b) Đối với các nhóm đã thực hiện xong: Cần giao nhiệm
vụ cho các em tiếp tục vận dụng thực tiễn, đề xuất các phương án khác đã có
trong bài học. Yêu cầu các em báo cáo kết quả thực hiện ở nhà thông qua các sản
phẩm học tập.
Không nên giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh bằng những
câu hỏi, bài tập có tính chất học thuộc lòng máy móc, mà nên lựa chọn những
tình huống, nhiệm vụ học tập bổ ích liên quan đến thực tiễn đòi hỏi các em phải
hợp tác với cộng đồng để tìm tòi, khám phá.
7. Hoạt động thực hành thí nghiệm
Đây là một hoạt động học quan trọng chủ đạo đối với
các môn KHTN nhất là các môn có nhiều thí nghiệm thực hành như Vật lí, Hoá học,
Sinh học... Hoạt động này giúp HS trải nghiệm, học thông qua thực hành, tạo
tiền đề cho HS làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, điển hình là học
theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Ở đây HS có thể tự làm thí
nghiệm, hoặc làm thí nghiệm theo nhóm.
Khi tổ chức hoạt động này, GV cần: Chuyển giao nhiệm
vụ, cho HS xây dựng phương án thí nghiệm (bố trí thí nghiệm, tiến hành thí
nghiệm, mẫu báo cáo), dự đoán kết quả; hướng dẫn an toàn thí nghiệm, nơi bố trí
thí nghiệm và thu dọn dụng cụ thí nghiệm; hướng dẫn cách thu thập thông tin,
phân tích kết quả và ghi báo cáo, cách trình bày báo cáo; thảo luận, tính khả
thi, an toàn thí nghiệm trước khi làm thí nghiệm.
Giáo viên nên tránh: Thực hành thí nghiệm thay cho HS
(trừ thí nghiệm biểu diễn trên lớp); Áp đặt HS làm thí nghiệm theo kịch bản đã
sắp đặt trước của GV.
8. Kĩ thuật theo dõi HS đánh giá quá trình học tập
Theo dõi đánh giá HS trong quá trình học tập là một
trong những khâu quan trọng trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người
học. Ở đây, GV được quan sát, "mục sở thị" các hoạt động, cử chỉ,
hành vi, tác phong của các em trong quá trình học ở lớp học cũng như tự học ở
ngoài lớp học (nếu quan sát được). Căn cứ vào sản phẩm học tập và thái độ học
tập, GV đánh giá được sự tiến bộ của HS, đánh giá được khả năng vận dụng giải
quyết tình huống vào thực tiễn.
Để theo dõi đánh giá quá trình học tập của HS, GV cần:
Có sổ theo dõi quá trình học tập, ở đó ghi có ghi những lưu ý, chú ý về khả
năng phát triển cũng như các hạn chế của từng em trong quá trình học tập; Theo
dõi đánh giá khả năng nhận thức, thái độ học tập thông qua hoạt động học: tiếp
nhận nhiệm vụ, tự học cá nhân, trao đổi thảo luận, tư duy sáng tạo học tập và
trình bày sản phẩm học tập, các kỹ năng thao tác thực hành...; Nên chuẩn bị các
tiêu chí đánh giá, phân tích hướng dẫn cho HS cách tự đánh giá, đánh giá lẫn
nhau; Thường xuyên tổ chức cho HS tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau thông qua tổ
chức trò chơi học tập, đánh giá sản phẩm học tập,
Thường xuyên xem vở ghi của HS, phát hiện những điểm
yếu kém của HS, động viên khích lệ sự cố gắng, nỗ lực tiến bộ của HS so với bản
thân các em; Đa dạng hoá các hình thức và phương pháp đánh giá...;
GV cần tránh: Ghi chép, đánh giá HS theo cảm tính
không có minh chứng kết quả học tập; Thiên vị, không tạo cơ hội cho các em được
đóng vai, nhất là khi tổ chức học hợp tác như làm nhóm trưởng, thư ký nhóm,...;
Bỏ qua những HS bị bỏ rơi, lười học tập mà không tìm hiểu nghuyên nhân, không
có sự trợ giúp kịp thời; Bỏ quên những sản phẩm học tập tự làm ở nhà của HS...
9. Sử dụng CNTT trong hỗ trợ tổ chức hoạt động học
Dạy học có ứng dụng CNTT giúp GV thuận lợi trong tổ
chức hoạt động học. Những phần mềm, tranh ảnh, sơ đồ, mô hình mẫu vật, thí
nghiệm mô phỏng, video... có tác dụng thiết thực trong quá trình dạy học.
GV chỉ nên sử dụng CNTT để thay thế các thiết bị, thí
nghiệm mà thực tế khó thực hiện, mang tính nguy hiểm... hoặc không thực hiện
được: phản ứng hạt nhân, mô phỏng chuyển động của các hành tinh...
Khi sử dụng CNTT tổ chức hoạt động học, GV cần: Chuẩn
bị chu đáo các thiết bị CNTT để hỗ trợ: phần mềm, máy tính,...; Chỉ nên hỗ trợ
trình chiếu khi chuyển giao nhiệm vụ, khi cần thuyết trình giải thích hoặc khi
hệ thống hoá kiến thức bài học...; Chọn lọc âm thanh, hình ảnh, trích đoạn
clip... phù hợp với cách tổ chức hoạt động.
GV nên tránh: Dạy học theo kiểu trình chiếu, thuyết
trình cả bài; Trình chiếu trong lúc học sinh học cá nhân, thảo luận nhóm....
Câu 4: Đề xuất những cải tiến để áp dụng các PP, KTDH này
nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh.
1. Nhìn nhận và phân tích
Trước mỗi một vấn đề cần giải quyết, bạn cần phải đánh
giá xem nó có thực sự quan trọng hay không, có cần giải quyết ngay lập tức hay
không. Bởi nếu vấn đề đó không quá gấp gáp thì bạn nên dành thời gian để suy
xét và đánh giá một cách kỹ càng; đồng thời bạn cũng có thể ưu tiên giải quyết
các vấn đề khác cấp bách hơn, quan trọng hơn nhằm giảm thiệt hại và rủi ro
xuống mức thấp nhất có thể.
2. Xác định chủ sở hữu của vấn đề
Bước tiếp theo trong quá trình giải quyết vấn đề đó
chính là bạn cần xác định xem chủ sở hữu của
vấn đề đó là ai bởi không phải bất cứ vấn đề, tình
huống phát sinh nào có ảnh hưởng tới bạn cũng
cần chính bạn giải quyết. Nếu bạn không có đủ thẩm
quyền và năng lực để xử lý tình huống đó thì bạn hoàn toàn có thể chuyển vấn đề
đó sang cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm giải quyết. Tuyệt đối không
hành động hoặc tự ý giải quyết khi vấn đề không nằm trong phạm vi quản lý và
quyền hạn của bạn để tránh gây ra hiểu lầm hoặc những mâu thuẫn khác không đáng
có.
3. Hiểu vấn đề
Một người chưa nắm rõ được vấn đề của mình thực sự là
gì thì sẽ không thể đưa ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề đó. Để hiểu được trọng
tâm của một vấn đề bất kỳ nào đó mà bạn gặp phải trong công việc cũng như trong
đời sống hàng ngày, bạn cần trả lời các câu hỏi sau:
Tính chất của vấn đề có khẩn cấp và quan trọng hay
không?
Nguồn gốc xảy ra vấn đề nằm ở đâu? Bản chất của vấn đề
là gì?
Có điểm gì đặc biệt cần lưu ý khi giải quyết vấn đề
hay không?
Phạm vi ảnh hưởng của vấn đề nếu không được giải quyết
là như thế nào?
Những nguồn lực nào cần có để giải quyết được vấn đề
này?
4. Chọn giải pháp
Một kỹ năng nữa cũng rất quan trọng nằm trong kỹ năng
giải quyết vấn đề và ra quyết định đó chính là khả năng lựa chọn giải pháp tối
ưu nhất. Sau khi vấn đề đã được phân tích một cách kỹ càng và chi tiết thì bạn
sẽ dễ dàng đưa ra một loạt các giải pháp để giải quyết nó. Bài toán được đặt ra
ở đây đó chính là làm sao để chọn được giải pháp tốt nhất trong số các giải
pháp đã đề ra?
Theo lý thuyết được nêu ra trong các cuốn sách kỹ năng
giải quyết vấn đề thì một giải pháp được gọi là tối ưu nếu thỏa mãn đồng thời
cả 3 đặc điểm sau đây:
Giải pháp có thể khắc phục được bản chất của vấn đề
trong dài hạn
Giải pháp có tính khả thi và hoàn toàn có thể thực
hiện được trong phạm vi nguồn lực sẵn có.
Giải pháp có tính hiệu quả đối với vấn đề cần giải
quyết.
5. Thực thi giải pháp
Sau khi đã lựa chọn được cho mình giải pháp tối ưu
nhất để giải quyết vấn đề thì bước tiếp theo sẽ là tiến hành thực thi giải
pháp. Trong quá trình này, bạn cần lưu ý một số điểm đặc biệt như:
Ai là người chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi
giải pháp để giải quyết vấn đề?
Ai có liên quan tới kết quả sau khi đã thực thi giải
pháp?
Thời gian để thực thi giải pháp sẽ kéo dài trong bao
lâu? Cần những nguồn lực nào?
6. Đánh giá
Ngay cả sau khi đã giải quyết được vấn đề thì bạn cũng
đừng nên bỏ qua bước đánh giá giải pháp thực hiện. Bạn cần dành thời gian tổng
kết lại những hiệu quả đạt được và kèm theo những ảnh hưởng ngoài dự kiến (nếu
có). Những tổng kết này sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong việc nâng cao kinh
nghiệm và cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề trong những lần tiếp theo.
Câu 5: Quy trình lựa chọn và sử dụng PP, KTDH cho một chủ đề
(bài học) trong môn Toán ở THCS được giới thiệu trong Nội dung 3 có gì khác so
với quy trình hiện nay quý thầy/cô đang thực hiện ở trường phổ thông?
Về cơ bản có những điểm khác mhư trong mục tiêu dạy
học chú trọng đến phát triển năng lực học sinh do đó phương pháp và kỹ thuật
dạy học ppải đáp ứng được yêu cầu này. ngoài ra các pp và ktdh được giới thiệu
cũng phù hợp với chuỗi hoạt động của học sinh hơn, phù hợp với thiết bị dạy học
và vật liệu dạy học.trong quy trình lựa chọn ktdh và pp dạy học mới cũng tăng
cường các hoạt động khám phá, trải nghiệm của học sinh giúp học sinh chủ động
hơn trong việc phát triển năng lực chứ không nặng về chiếm lĩnh chi thức
Câu 6: Thầy/cô dựa vào những tiêu chí đánh giá nào để lựa
chọn, sử dụng PP, KTDH của một chủ đề trong môn Toán?
Tiêu chí 1: Mức độ phù hợp của chuỗi hoạt động học với
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học được sử dụng
Tiêu chí 2: Mức độ rõ ràng của mục tiêu, nội dung, kĩ
thuật tổ chức và sản phẩm cần đạt được của mỗi nhiệm vụ học tập
Tiêu chí 3: Mức độ phù hợp của thiết bị dạy học và học
liệu được sử dụng để tổ chức các hoạt động học của HS
Tiêu chí 4: Mức độ hợp lí của phương án kiểm tra, đánh
giá trong quá trình tổ chức hoạt động học của HS
Câu 7: GV sử dụng PP, KTDH trong video minh hoạ có phù hợp không?
Vì sao?
Theo tôi là tương đôí phù hợp với mục têu dạy học và
đối tượng học sinh. Vì vấn đề đượ cần được
tìm hiểu và giải quyết ở đây gắn liền với thực tiễn
cuộc sống hàng ngày của học sinh và nhận thức của học sinh có thể giải quyết
được.
Câu 8: Phân tích ưu điểm và hạn chế của việc lựa chọn
và sử dụng PP, KTDH trong hoạt động dạy học GV thực hiện trong video
minh hoạ.
Trả lời
Ưu điểm của việc lựa chọn và sử dụng PP, KTDH trong
hoạt động dạy học GV thực hiện trong video minh hoạ là tích hợp được rất nhiều
kiến thức ở nhiều lĩnh vực vào giờ học.
Hạn chế. huẩn bị tiết dạy công phu, mất nhiều thời
gian, thời lượng cho tiết học nhiều
Câu 9: Lựa chọn, sử dụng PP và KTDH của một chủ đề trong
môn Khoa học tự nhiên ở THCS.
- Hướng dẫn làm bài tập:
+ Lựa chọn một chủ đề trong chương trình GDPT 2018
- môn Khoa học tự nhiên.
+ Lựa chọn, sử dụng PP, KTDH theo quy trình đã
tìm hiểu.
+ Thể hiện việc lựa chọn, sử dụng, PP, KTDH
thông qua chuỗi hoạt động học.
+ Tự đánh giá và đánh giá chéo cho đồng nghiệp bằng
cách nhận xét và sử dụng tiêu chí trong Công văn số 5555/BGDĐT- GDTrH.
Dạy học chủ đề phát triển PC, NL được thực hiện thông
qua tiến trình dạy học do GV thiết kế. Tiến trình này được cấu trúc bởi chuỗi
gồm các hoạt động học của HS để có thể thực hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết
học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động học trong tiến trình sư phạm
của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Thông qua chuỗi hoạt động
học, HS cần đạt được tất cả các mục tiêu dạy học mà GV đã đặt ra cho quá trình
dạy học chủ đề.
Các loại hình hoạt động chính trong tiến trình dạy học
chủ đề
Thông thường, tiến trình dạy học một chủ đề bao gồm
các hoạt động chính như gợi ý dưới đây.
(1) Hoạt động gắn kết HS vào chủ đề/ thu hút HS vào
chủ đề/ xác định vấn đề cần giải quyết/ đặt vấn đề
GV khởi động chủ đề bằng nhiệm vụ, tình huống hoặc câu
hỏi nhận thức thực tiễn. HS đáp lại bằng sự huy động kiến thức, kĩ năng kinh
nghiệm đã có nhưng chỉ có thể giải quyết một phần hoặc phỏng đoán được kết quả
mà chưa lí giải được đầy. Từ đó, HS xác định được vấn đề chính cần giải quyết,
thiết lập được quan hệ giữa kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm đã có với kiến thức,
kĩ năng mới, chưa biết để định hướng tìm tòi, khám phá.
Hoạt động này tuy không chiếm nhiều thời gian nhưng
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hứng thú học tập cho HS, từ đó HS có
động lực và nhu cầu tìm tòi, khám phá các kiến thức, kĩ năng mới trong chủ đề.
(2) Hoạt động tìm tòi và khám phá
Hoạt động này có thể phân chia làm nhiều hoạt động học
dành cho HS tuỳ theo độ dài và mức độ phức tạp của kiến thức. Thông qua chuỗi
hoạt động khám phá kiến thức mới, HS tìm hiểu kiến thức mới thông qua các tư liệu
học tập bằng kênh chữ/kênh hình/kênh tiếng; thông qua các hoạt động thí nghiệm…
GV tổ chức cho HS gia công trí tuệ bằng các kĩ năng tiến trình, như: quan sát,
thu thập, xử lí thông tin thông qua hoạt động phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu, hệ thống hóa, khái quát hóa, trừu tượng hóa, để giải quyết vấn đề chính
của chủ đề.
(3) Hoạt động thực hành, luyện tập, vận dụng
Trong hoạt động này, GV sử dụng hệ thống câu hỏi, bài
tập với mục tiêu cụ thể, nhằm rèn luyện các kiến thức, kĩ năng cụ thể hướng HS
đáp ứng năng lực hoặc thành phần năng lực đã xác định trong mục tiêu dạy học.
Cần có những câu hỏi, bài tập gắn liền với thực tiễn để HS phát triển được
thành phần vận dụng kiến thức kĩ năng đã học của năng lực khoa học tự nhiên.
(4) Hoạt động mở rộng
GV tổ chức, định hướng cho HS giải quyết các vấn đề
trong thực tiễn đòi hỏi vận dụng kiến thức kĩ năng đã học, có thể ở mức độ cao.
HS có thể thực hiện hoạt động này trên lớp, ngoài lớp, ở nhà hoặc cộng đồng.
Hoạt động này có thể đặt ở cuối chuỗi hoạt động, tuy
nhiên có thể đặt ra ngay từ ban đầu, như là một vấn đề cần giải quyết thông qua
chủ đề học tập. Từ đó HS chủ động tìm hiểu, khám phá kiến thức, vận dụng và rèn
luyện kĩ năng liên quan để giải quyết vấn đề đặt ra. Cách làm này được áp dụng
khi tổ chức chủ đề theo dự án hoặc chủ đề STEM và Chi tiết hoá mỗi hoạt động GV
cần chi tiết hoá mỗi hoạt động học cụ thể.
Điều quan trọng là cần đảm bảo mỗi hoạt động đều phải
hướng đến một hoặc một số mục tiêu dạy học đã đặt ra ban đầu. Cần lưu ý rằng
bản thân một hoạt động học là một chỉnh thể bao gồm mục tiêu dạy học, tổ chức
hoạt động dạy học, kiểm tra, đánh giá mức độ đạt pháp củng cố, điều chỉnh của
cả thầy và trò.
Thông thường, mỗi hoạt động học thường có các bước:
·
Chuyển giao nhiệm
vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với khả năng của HS, thể hiện ở
yêu cầu về sản phẩm mà HS phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức
giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của HS;
đảm bảo cho tất cả HS tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
·
Thực hiện nhiệm
vụ học tập: khuyến khích HS hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập;
phát hiện kịp thời những khó khăn của HS và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu
quả; không có HS bị "bỏ quên" trong quá trình tổ chức hoạt động.
·
Báo cáo kết quả
và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung học tập và phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho HS trao đổi, thảo luận
với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách
hợp lí.
·
Đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập
của HS; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý
kiến thảo luận của HS; chính xác tiếp cận được thông qua hoạt động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét